Trong 9 tháng năm 2023, Hải Phòng đã thu hút được hơn 3 tỷ USD vốn FDI, vượt kế hoạch đặt ra cho cả năm 2023 là hơn 2 tỷ USD.
SK - tập đoàn lớn thứ 2 Hàn Quốc đầu tư 500 triệu USD
Phát biểu tại lễ trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho dự án Nhà máy sản xuất vật liệu phân huỷ sinh học công nghệ cao, của nhà đầu tư Ecovance.Co.Ltd - Tập đoàn SK, Bí thư Thành ủy Lê Tiến Châu cho biết, đây là kết quả triển khai, cụ thể hóa Chương trình xúc tiến đầu tư của Hải Phòng tại Hàn Quốc tháng 6/2023 vừa qua.
Sự kiện có ý nghĩa quan trọng, đóng góp chung vào kết quả thực hiện nhiệm vụ cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, xúc tiến đầu tư, thu hút FDI, góp phần quan trọng vào thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội của cả nhiệm kỳ. Việc trao giấy chứng nhận đầu tư này cũng là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự có mặt của Tập đoàn SK tại Hải Phòng.
Với tổng vốn 500 triệu USD, Dự án có mục tiêu sản xuất vật liệu phân huỷ sinh học PBAT, PBS, PBATS trên diện tích 32.089 m2, lô đất CN5.5G2, khu công nghiệp DEEP C Hải Phòng I (thuộc Khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải).
Khu công nghiệp DEEP C Hải Phòng I là một trong 2 khu công nghiệp của Thành phố phát triển theo mô hình khu công nghiệp sinh thái, hướng đến phát triển bền vững và ứng dụng công nghệ cao. Giai đoạn 1 của dự án sẽ được khởi công từ giữa tháng 12/2023 và hoàn thành xây dựng trong 9 tháng. Dự kiến cuối năm nay sẽ đạt khoảng 35.000 tấn sản phẩm và sau khi mở rộng giai đoạn 2, công suất toàn dự án sẽ là 70.000 tấn/năm.
Dự án được triển khai sẽ góp phần mang lại nhiều ứng dụng công nghệ mới, hiện đại, hàng đầu của thế giới hiện nay vào nền sản xuất công nghiệp của Hải Phòng, nâng cao trình độ tay nghề của nguồn nhân lực, hình thành các trung tâm nghiên cứu phát triển, và tạo ra nguồn thu ngân sách.
Lễ trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho dự án Nhà máy sản xuất vật liệu phân huỷ sinh học công nghệ cao, của nhà đầu tư Ecovance.Co.Ltd - Tập đoàn SK
SK là tập đoàn lớn thứ 2 của Hàn Quốc đứng sau Sam Sung. SK được thành lập vào năm 1953, lĩnh vực hoạt động chính gồm 4 nhánh: Năng lượng và hóa chất, viễn thông, bán dẫn và vật liệu, dược phẩm và dịch vụ logistics.
"Từ một dự án ban đầu, tôi mong rằng Tập đoàn SK sẽ tiếp tục đầu tư và xem Hải Phòng như một địa bàn trọng điểm đầu tư", Bí thư Thành uỷ Lê Tiến Châu nhấn mạnh.
Ông Lê Tiến Châu cũng đưa ra 3 đề nghị với Tập đoàn SK: Triển khai đầu tư nhiều các lĩnh vực hơn nữa tại Hải Phòng, kêu gọi các thành viên trong Tập đoàn SK xây dựng hệ thống sinh thái các doanh nghiệp tại địa phương; quan tâm đầu tư các dự án công nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là sản xuất linh kiện điện tử, năng lượng, vật liệu mới (như Limex thay thế cho nhựa và giấy) thân thiện với môi trường; tích cực tăng cường hợp tác, ký kết với các trường Đại học, Cao đẳng tại Hải Phòng để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
'Sự thành công của doanh nghiệp, chính là sự thành công của thành phố', Hải Phòng hút nhiều dự án lớn
Ngay sau khi trao giấy chứng nhận đầu tư cho dự án sản xuất vật liệu phân hủy sinh học của Tập đoàn SK, UBND TP. Hải Phòng tiếp tục trao Giấy chứng đầu tư cho dự án Sản xuất máy và thiết bị của Kyocera Document Solutions Inc. (Nhật Bản) và một số dự án khác có tầm quan trọng rất lớn đối với Thành phố.
Ông Lê Trung Kiên, Trưởng Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng phát biểu tại buổi lễ
Ông Lê Trung Kiên, Trưởng Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng cho biết, việc điều chỉnh tăng vốn 237,5 triệu USD cho dự án của nhà đầu tư Kyocera Document Solutions Inc. (Nhật Bản) tại Khu đô thị, công nghiệp và dịch vụ VSIP Hải Phòng, đã nâng tổng vốn đầu tư của dự án lên 425 triệu USD.
Năm 2022, doanh thu của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Hải Phòng, trong đó có Tập đoàn Kyocera, đạt 2,2 tỷ USD, giá trị xuất khẩu đạt 3,08 tỷ USD. Trong số các dự án của nhà đầu tư Nhật Bản, khởi đầu từ năm 2012 với số vốn đầu tư 180 triệu USD tại Khu công nghiệp VSIP, dự án Kyocera luôn cho thấy sự ổn định và tăng trưởng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vai trò trách nhiệm với cộng đồng xã hội và là một trong các dự án tiêu biểu của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Hải Phòng.
Theo Bí thư Thành ủy Hải Phòng Lê Tiến Châu, quyết định tăng tổng vốn đầu tư thêm 238 triệu USD là minh chứng thuyết phục nhất cho cam kết của lãnh đạo Thành phố luôn hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp, bảo đảm một môi trường đầu tư an toàn, an ninh, đôi bên cùng có lợi, với phương châm "Sự thành công của doanh nghiệp, chính là sự thành công của Hải Phòng".
Đại diện lãnh đạo Hải Phòng trao giấy chứng đầu tư cho hàng loạt dự án khác có tầm quan trọng rất lớn đối với Thành phố
Cũng tại hội nghị, UBND TP. Hải Phòng cũng trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho các dự án: Dự án đầu tư phát triển nhà xưởng xây sẵn BW (61 triệu USD), dự án chế tạo phụ tùng ô tô của nhà đầu tư CCTY Bearing Company (Trung Quốc, 40 triệu USD), dự án sản xuất van và phụ kiện ống nước của nhà đầu tư Ningbo Huaping Intelligent Control Technology (Trung Quốc, 30 triệu USD), dự án Lắp ráp pin Li-ion và Ni-MH của nhà đầu tư Highpower Technology (Singapore, 20 triệu USD), dự án sản xuất sàn SPC của nhà đầu tư Yibin Tianyi New Material Technology (Trung Quốc, 19,5 triệu USD), dự án mở rộng đầu tư dự án về xây dựng kho chứa, bồn chứa của nhà đầu tư Công ty TNHH Công nghiệp Soft (Nhật Bản,15,2 triệu USD), dự án sản xuất phụ tùng và bộ phận phụ trợ cho ô tô của nhà đầu tư Daimay Investment (Hongkong-Trung Quốc, 15 triệu USD), dự án kho chứa, bồn bể của nhà đầu tư Công ty TNHH Top Solvent Việt Nam (Thái Lan, 12,8 triệu USD), dự án sản xuất thiết bị quang học của nhà đầu tư Goodwe Singapore (10 triệu USD).
Ngoài các dự án kể trên, Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng đã hoàn thành lựa chọn nhà đầu tư cho 2 dự án nhà ở xã hội, phấn đấu khởi công trong năm 2023 để tạo ra quỹ nhà ở xã hội cho công nhân, người lao động. Đó là dự án xây dựng khu nhà ở xã hội tại phường Đông Hải 2, quận Hải An thuộc Khu kinh tế Đình Vũ-Cát Hải với quy mô 22,48 ha, tổng vốn đầu tư 142 triệu USD; dự án xây dựng Nhà ở xã hội (giai đoạn 1) tại phường Tràng Cát, quận Hải An thuộc Khu kinh tế Đình Vũ-Cát Hải với quy mô 28,14 ha, tổng vốn đầu tư 254 triệu USD.
Hai dự án trên với tổng vốn đầu tư khoảng 400 triệu USD, đi vào hoạt động sẽ tạo ra quỹ nhà ở hơn 8.000 căn cho khoảng 22.000 người, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, ổn định chỗ ở để người lao động yên tâm làm việc.
Theo Ban Quản lý Khu Kinh tế Hải Phòng, đây là 2 dự án có ý nghĩa hết sức quan trọng, đáp ứng nhu cầu của nguồn nhân lực ngày càng lớn sinh sống và làm việc tại Hải Phòng, góp phần cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Thành phố, thực hiện thành công chương trình xây dựng 1 triệu căn nhà ở xã hội do Thủ tướng Chính phủ đề ra.
Tiếp tục khẳng định vai trò của khu kinh tế
Tính đến nay, Hải Phòng đã thu hút hơn 1.000 dự án FDI với tổng vốn đầu tư gần 28 tỷ USD. Các khu công nghiệp, khu kinh tế thu hút 708 dự án với tổng vốn đầu tư 38,1 tỷ USD. Trong 8 tháng năm 2023, đã cấp mới 45 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đạt gần 2,1 tỷ USD và 11 dự án FDI đạt gần 15.000 tỷ đồng (gần 600 triệu USD). Trong năm 2022, doanh thu đạt 34,8 tỷ USD, kim ngạch xuất nhập đạt 24,46 tỷ USD và nộp ngân sách đạt 17.800 tỷ đồng. 8 tháng năm 2023, doanh thu đạt 19,9 tỷ USD, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 14,6 tỷ USD và nộp ngân sách 8.700 tỷ đồng.
Năm 2023 là năm tổng kết 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu kinh tế Hải Phòng. Có được những kết quả rất tốt đẹp trong ngày hôm nay, theo ông Lê Tiến Châu, phải khẳng định vai trò rất quan trọng của các công ty kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, như Tổ hợp khu công nghiệp Deep C, Khu công nghiệp VSIP Hải Phòng, Nomura, Tràng Duệ…
"Đặc biệt, tôi ghi nhận, đánh giá cao vai trò của Ban Quản lý Khu kinh tế trong công tác, tham mưu, triển khai, tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, đàm phán, ký kết các biên bản hợp tác với các nhà đầu tư và khẳng định vai trò động lực của khu kinh tế đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh của thành phố Hải Phòng", Bí thư Thành uỷ chia sẻ.
Đồng thời, ông Lê Tiến Châu yêu cầu Ban Quản lý Khu kinh tế tiếp tục củng cố phát huy vai trò là đầu tàu, động lực chủ yếu trong dẫn dắt, định hướng phát triển của Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải hiện tại, phối hợp với các sở ngành có liên quan nỗ lực hơn nữa trong thực hiện chiến lược trọng tâm của Hải Phòng, đó là thành lập khu kinh tế Nam Hải Phòng.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh, phát triển hạ tầng khu công nghiệp, UBND TP. Hải Phòng mong muốn doanh nghiệp tăng cường phối hợp hơn nữa với ban quản lý khu kinh tế, các quận huyện, khẩn trương đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng, hoàn thiện quy hoạch, sớm tạo quỹ đất để đón các nhà đầu tư.
Đối với các nhà đầu tư thứ cấp, UBND Thành phố nhanh chóng triển khai dự án, hoàn thiện các thủ tục theo đúng quy định của pháp luật, đề ra các chính sách quan tâm đến người lao động.
Kể từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986, quan hệ hợp tác kinh tế, trong đó bao gồm hợp tác về đầu tư đã phát triển mạnh mẽ. Trong hơn 35 năm qua, đầu tư nước ngoài, đặc biệt là FDI đã trở thành một nguồn lực đầu tư quan trọng, có vai trò to lớn trong quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế của Việt Nam. Nguồn lực vốn, kỹ thuật, công nghệ từ FDI đã đóng góp rất lớn vào quy mô tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, tạo việc làm, tăng thu cho ngân sách nhà nước và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội trong thời gian qua.
Tuy nhiên, bên cạnhnhững thành quả quan trọng nêu trên, xét về xu hướng trong những năm gần đây, hoạt động thu hút FDI đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, như: gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, trốn thuế, chuyển giá, trả công lao động thấp, cơ cấu đầu tư bất lợp lý giữa các ngành nghề và vùng miền. Cùng với đó, cơ chế, chính sách, công cụ quản lý FDI vẫn còn nhiều bất cập, chậm được khắc phục. Đặc biệt, dòng vốn đầu tư này có dấu hiệu chững lại do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 và tác động của cuộc canh tranh thu hút FDI với các nước trong khu vực.
Cụ thể hóa Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, ngày 02/6/2022, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030. Trong đó, nêu rõ: Tập trung thu hút đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm; thu hút các dự án sử dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa tích cực, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; thu hút đầu tư xanh, công nghệ cao, công nghệ phụ trợ, phương pháp quản lý, quản trị tiên tiến; đề cao trách nhiệm với xã hội và bảo vệ môi trường nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài… Trong giai đoạn 2021-2030, để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và giảm nghèo bền vững, đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục gia tăng quy mô và tốc độ thu hút đầu tư FDI nhằm phát huy vai trò tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP và xây dựng nền kinh tế xanh.
Thực trạng thu hút FDI của Việt Nam thời gian qua
Trong gần 4 thập kỷ (1986-2022), Việt Nam được xem là hình mẫu thành công trong thu hút FDI nhờ môi trường đầu tư hấp dẫn, nền tảng chính trị ổn định và tiềm năng tăng trưởng kinh tế khá cao. Từ năm 2017 đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục rót vốn mạnh vào Việt Nam, vẫn xem Việt Nam là điểm đến hấp dẫn với những lợi thế về địa lý, thể chế và môi trường đầu tư ngày càng được hoàn thiện.
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về thu hút nguồn vốn FDI trong khoảng 10 năm trở lại đây. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), giai đoạn 2013-2022 đã có 23.706 dự án FDI được cấp phép đăng ký đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký 288,66 tỷ USD. Trong đó, số vốn thực hiện là 173,4 tỷ USD, chiếm 60,07% số vốn đăng ký (Bảng 1). Trong giai đoạn 2013-2022, quy mô bình quân 1 dự án đạt giá trị không cao và không ổn định qua các năm. Nếu như năm 2013, quy mô bình quân 1 dự án đạt 14,6 triệu USD nhưng vốn thực hiện chỉ đạt 51,45% vốn đăng ký, thì đến năm 2022 quy mô bình quân 1 dự án giảm xuống còn 13,61 triệu USD, nhưng vốn thực hiện tăng lên đạt 80,81% vốn đăng ký. Như vậy, trong giai đoạn này; quy mô bình quân 1 dự án không tăng, nhưng tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký có xu hướng tăng lên rất nhiều.
Năm 2022, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt gần 27,72 tỷ USD, mức vốn FDI thực hiện đạt kỷ lục 22,4 tỉ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2021. Đây là số vốn FDI thực hiện cao nhất trong 5 năm (2017-2022). Tính lũy kế trong giai đoạn 1986-2022, Việt Nam đã thu hút được gần 438,7 tỷ USD vốn FDI; trong đó, 274 tỷ USD đã được giải ngân, chiếm 62,5% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Năm 2022, nhiều dự án được tăng vốn đầu tư từ đầu năm như dự án sản xuất, chế tạo các sản phẩm điện tử, công nghệ cao được tăng vốn với quy mô lớn; Dự án Samsung Electro-mechanics Việt Nam (Thái Nguyên) tăng vốn 2 lần: tăng 920 triệu USD (lần 1) và tăng 267 triệu USD (lần 2); Dự án Công ty TNHH Điện tử Samsung HCMC CE Complex tăng vốn trên 841 triệu USD; Dự án nhà máy chế tạo điện tử, phương tiện thiết bị mạng và sản phẩm âm thanh đa phương tiện tại Bắc Ninh (tăng 306 triệu USD), tại Nghệ An (tăng 260 triệu USD) và tại Hải Phòng (tăng 127 triệu USD).
Năm 2022, đã có 108 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam; trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư gần 6,46 tỷ USD; Hàn Quốc đứng thứ hai với gần 4,88 tỷ USD; Nhật Bản đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 4,78 tỷ USD; tiếp theo là Trung Quốc (2,52 tỷ USD), Hồng Kông (2,22 tỷ USD).
Xu hướng thu hút FDI xanh tại Việt Nam
Hiện nay, FDI cùng với việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường (FDI xanh) đang là một xu hướng đầu tư tất yếu, đồng thời các quốc gia nhận đầu tư ngày càng chú trọng đến việc tăng cường các chính sách bảo vệ môi trường. Vì vậy, khi một nước nhận được các dự án đầu tư FDI sạch, sẽ có cơ hội đón nhận các công nghệ xử lý, thân thiện với môi trường hiện đại, vừa tăng được các lợi ích về kinh tế, vừa đảm bảo môi trường.
FDI có tác động tích cực tới môi trường thông qua việc ra đời những sản phẩm mới tiết kiệm năng lượng, giảm bớt sự phụ thuộc vào những nguyên liệu, hoặc nguồn năng lượng truyền thống và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất hoặc các kinh nghiệm tốt về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, sự có mặt của các công ty đa quốc gia cũng có tác động lan tỏa đối với các công ty trong nước thông qua việc chuyển giao công nghệ tiên tiến, kỹ năng chuyên môn và những yêu cầu áp dụng tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt. Nhìn chung, FDI sẽ góp phần giúp tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Những lợi ích kinh tế này sẽ được sử dụng một phần giúp giải quyết các vấn đề về môi trường theo các phương cách khác nhau.
Chính vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 01/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050. Những mô hình kinh tế cụ thể có tính thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó có kinh tế tuần hoàn, cũng đang được nghiên cứu, tạo thuận lợi, hướng tới thúc đẩy chuyển đổi xanh ngay trong quá trình phục hồi kinh tế.
Sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài đối với kinh tế xanh, sản xuất xanh ít nhiều tạo được những tác động lan tỏa tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam. Một mặt, mô hình khu công nghiệp (KCN) sinh thái đã được quan tâm nhiều hơn, đi kèm với hoàn thiện chính sách liên quan, cũng như sự gia tăng đầu tư của các doanh nghiệp phát triển bất động sản công nghiệp (ví dụ như KCN sinh thái Nam Cầu Kiền, hay các KCN được chọn làm KCN sinh thái trong khuôn khổ Dự án “Triển khai KCN sinh thái tại Việt Nam theo hướng tiếp cận từ Chương trình KCN sinh thái toàn cầu”…). Mặt khác, Ban quản lý các KCN cũng nhìn nhận tích cực hơn về vai trò của việc bảo vệ môi trường như là một yếu tố tiên quyết để thu hút FDI. Trước đây, bảo vệ môi trường thường được nhìn nhận với tác động làm tăng chi phí, do đó không đồng nhất với lợi ích kinh tế. Tuy nhiên, các KCN hiện đã quan tâm hơn đến sàng lọc, đánh giá tác động môi trường nhằm bảo đảm các dự án đầu tư sẽ thân thiện với môi trường.
Trong giai đoạn gần đây, dòng vốn FDI vào Việt Nam đã có sự chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng. Cụ thể, các dự án đầu tư đang dần đảm bảo các tiêu chuẩn để phù hợp với mục tiêu tăng trưởng xanh và bền vững của Việt Nam. Một số dự án điển hình trong giai đoạn gần đây, có thể kể đến như sau:
- Nhà máy trung hòa carbon đầu tiên của LEGO tại Bình Dương: Ngày 03/11/2022, nhà máy trung hòa carbon đầu tiên của LEGO tại Bình Dương chính thức được khởi công và dự kiến bắt đầu đi vào hoạt động sản xuất trong năm 2024. Đây là dự án của LEGO - tập đoàn sản xuất đồ chơi lớn nhất thế giới có trụ sở chính tại Đan Mạch có tổng đầu tư hơn 1 tỷ USD. Theo kế hoạch, nhà máy sẽ sử dụng năng lượng mặt trời bằng các tấm pin được lắp đặt trên mái nhà, đồng thời, VSIP (Vietnam Singapore Industrial Park) cũng sẽ thay mặt LEGO xây dựng một dự án năng lượng mặt trời ở gần đó. Khi cả hai kết hợp lại, mạng lưới năng lượng mặt trời sẽ sản xuất năng lượng tái tạo để đáp ứng 100% yêu cầu năng lượng hàng năm của nhà máy (Nhật Xuân, 2022). Ngoài ra, việc xây dựng sẽ đáp ứng các tiêu chuẩn LEED Gold (Leadership in Energy and Environmental Design) về sử dụng năng lượng, nước và chất thải có trách nhiệm, đồng thời được thiết kế để vận hành các trang thiết bị sử dụng năng lượng điện nhằm nâng cao hiệu quả bền vững. Các cam kết phát thải sẽ được Tập đoàn LEGO thực hiện bằng cách cùng VSIP trồng 50.000 cây xanh tại Việt Nam để bù đắp cho thảm thực vật bị thiệt hại trong quá trình xây dựng nhà máy.
- Dự án điện gió ngoài khơi La Gàn tại Bình Thuận: Đây là dự án đang được phát triển bởi đơn vị quản lý dự án cao cấp của CIP là Copenhagen Offshore Partners (COP). Dự án đã lắp đặt được 2 trụ đo gió trên bờ và đạt được những tiến bộ đáng kể trong quá trình thực hiện. Dự án có công suất 3,5 GW, với tổng số vốn đầu tư lên tới 10,5 tỷ USD. Dự kiến khi hoàn thành, có thể cung cấp năng lượng sạch cho hơn 7 triệu gia đình Việt Nam, giảm thiểu 130 triệu tấn khí thải CO2, đồng thời đóng góp hơn 4 tỷ USD cho nền kinh tế Việt Nam.
- Dự án nhà máy điện khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Bạc Liêu: Đây là dự án 100% vốn nước ngoài, do Công ty Delta Offshore Energy Pte.Ltd (Singapore) làm chủ đầu tư, cùng Tập đoàn Bechtel (Mỹ) là tổng thầu EPC (Engineering, Procurement and Constrution) và các đối tác. Tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 4 tỷ USD (tương đương 93.600 tỷ đồng). Dự án được thiết kế với tổng công suất 3.200 MW. Nhà máy áp dụng công nghệ tiên tiến của Tập đoàn General Electric, với dòng máy tuabin khí chu kỳ hỗn hợp 9HA-02, đáp ứng yêu cầu của Chính phủ về năng lượng sạch và an toàn lưới điện.
- Dự án Nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt công nghệ cao T&J tại Bắc Ninh: Đây là dự án do Công ty TNHH Năng lượng xanh là chủ đầu tư, được ký kết hợp tác đầu tư vào tháng 11/2021 bởi Tập đoàn công nghiệp JFE Nhật Bản và Công ty Cổ phần Môi trường Thuận Thành. Theo kế hoạch, nhà máy sẽ được thiết kế với công suất xử lý 500 tấn rác thải sinh hoạt/ngày, hiệu suất phát điện 11,6 MW và có thể tạo ra hơn 91.800 MWh năng lượng sạch mỗi năm.
Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút FDI và hướng đến thu hút FDI xanh
Xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các quốc gia đang có dấu hiệu chậm lại. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần thực thi nhiều giải pháp hiệu quả để thu hút dòng vốn FDI có chất lượng, nhất là FDI xanh trong thời gian tới, cụ thể như sau:
Thứ nhất, tiếp tục quảng bá, xúc tiến đầu tư: Tiếp tục quảng bá, thu hút các tập đoàn đa quốc gia, công ty có thương hiệu tên tuổi đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là từ các khu vực có thế mạnh về công nghệ, vốn, kỹ năng quản lý, như: Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản. Tiếp tục chiến dịch vận động xúc tiến đầu tư chiến lược ở tầm quốc gia để tiếp cận trực tiếp với các chuỗi cung ứng toàn cầu, chủ động tham gia kiến tạo và vận động đưa các công đoạn sản xuất, kinh doanh phù hợp, có giá trị gia tăng cao hơn vào Việt Nam, mà không thụ động chờ các nhà đầu tư tìm đến.
Thứ hai, thu hút đầu tư có chọn lọc: Thu hút FDI phải lấy chất lượng làm trọng, không khoan nhượng với dự án của bất kỳ đối tác nào để hướng nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Theo đó, cần ưu tiên thu hút FDI vào các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, tiên tiến, công nghệ thân thiện với môi trường, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh; phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là các ngành nghề mới trên nền tảng công nghiệp 4.0.
Để làm được điều này, Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá dự án. Thu hút FDI cần lựa chọn và ưu tiên các nhà đầu tư nước ngoài, tập đoàn lớn, có công nghệ tiên tiến dẫn đầu trong ứng dụng công nghệ, thân thiện với môi trường và thật sự có năng lực, xóa bỏ việc thu hút FDI tràn lan. Liên kết khu vực FDI với khu vực kinh tế trong nước nhằm tạo dựng và phát triển công nghiệp phụ trợ trong nước.
Bên cạnh đó, cần xây dựng và ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn, quy chuẩn về khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường trong thu hút và sử dụng FDI. Các yêu cầu về môi trường và đánh giá tác động về môi trường cần được ưu tiên hàng đầu. Nâng cấp tiêu chuẩn về môi trường để làm căn cứ không tiếp nhận các dự án không khuyến khích đầu tư (như: dệt nhuộm sử dụng công nghệ cũ...). Luôn đảm bảo nguyên tắc không thu hút FDI bằng mọi giá; không thu hút các dự án có nguy cơ hủy hoại tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Rà soát, sửa đổi pháp luật về đăng ký chuyển giao công nghệ; nhập khẩu máy móc, thiết bị của doanh nghiệp FDI nhằm kiểm soát, thúc đẩy công nghệ và chuyển giao công nghệ; ngăn ngừa, hạn chế tình trạng gian lận và tiếp nhận công nghệ không thân thiện với môi trường.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra gắn với nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương và người đứng đầu đối với việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan tới đầu tư nước ngoài; kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các vi phạm về bảo vệ môi trường. Không gia hạn, mở rộng hoạt động đối với các dự án sử dụng công nghệ thấp, không đáp ứng được tiêu chuẩn công nghệ, môi trường.
Thứ ba, ưu đãi hỗ trợ đầu tư: Xây dựng thể chế, chính sách ưu đãi vượt trội, cạnh tranh, tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi thu hút các dự án lớn, trọng điểm quốc gia, dự án công nghệ cao... thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia đầu tư, đặt trụ sở và thành lập các trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) tại Việt Nam.
Cùng với việc xây dựng môi trường kinh doanh tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư, Việt Nam cần tiếp tục ban hành các gói hỗ trợ hấp dẫn. Hiện nay, Luật Đầu tư sửa đổi và các luật khác có liên quan đã bổ sung những ưu đãi mang tính cạnh tranh tạo thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư. Xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp trong nước kết nối với doanh nghiệp FDI như cơ chế hỗ trợ về lãi suất, tài chính, tiếp cận các nguồn lực đầu tư để nâng cấp các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước đủ khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thứ tư, đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ cho đội ngũ làm công tác quản lý liên quan đến FDI, chú trọng cập nhật kiến thức về xu hướng vốn FDI xanh; các tiêu chí FDI xanh trên thế giới; kinh nghiệm quản lý dự án FDI xanh; kinh nghiệm xử lý các rủi ro môi trường kể cả từ các dự án FDI đã được cam kết “xanh”…
1. Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013-2022), Báo cáo về tình hình thu hút vốn FDI các năm, từ năm 2013 đến năm 2022.
2. Cảnh Hưng, Minh Huế (2021), Bắc Ninh khởi động dự án nhà máy xử lý chất thải rắn công nghệ cao phát năng lượng, truy cập từ https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/bac-ninh-khoi-dong-du-an-nha-may-xu-ly-chat-thai-ran-cong-nghe-cao-phat-nang-luong-86001.htm.
3. Nhật Xuân (2022), LEGO đầu tư 1 tỷ USD xây dựng nhà máy trung hòa carbon đầu tiên, truy cập từ https://doanhnghiepvn.vn/cong-nghe/lego-dau-tu-1-ty-usd-xay-dung-nha-may-trung-hoa-carbon-dau-tien/20211208095413295.
4. Phạm Thị Thanh Bình (2023), Thu hút FDI của Việt Nam năm 2022 và triển vọng, truy cập từ https://tapchinganhang.gov.vn/thu-hut-fdi-cua-viet-nam-nam-2022-va-trien-vong.htm.